Chiều ngày
6/2/2025 tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên trường mầm non Quang Hưng, đã
nghiêm túc tham gia dự Hội nghị trực tuyến về "Quán triệt, triển khai thực hiện kết luận số 91-KL/TW ngày
12/8/2024 nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của bộ chính trị và chiến lược
phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045"
Kết luận số
91-KL/TW ngày 12/8/2024 của bộ chính trị tiếp tục thực hiện nghị quyết số
29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
“về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế".
Theo hướng dẫn, việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên
truyền kết luận số 91-KL/TW tập trung vào các nội dung
1.
Một là, các quan điểm chỉ đạo của Trung ương Đảng về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo được nêu trong Nghị quyết số 29-NQ/TW, nhất là
các quan điểm: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của
Đảng, Nhà nước và của toàn dân; Đổi mới phải đảm bảo tính hệ thống, tầm nhìn
dài hạn, đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình và bước đi phù
hợp; Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ nặng về trang bị kiến thức sang phát
triển toàn diện năng lực, phẩm chất người học; Chuyển phát triển giáo dục và
đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng
thời đáp ứng yêu cầu số lượng; Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh
hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục,
đào tạo; Chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo dục và đào tạo; Chủ động phát huy mặt
tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Các mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp của Nghị quyết số 29-NQ/TW; nhấn mạnh mục tiêu “Tạo chuyển biến căn bản,
mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo”; các nhiệm vụ, giải pháp
chưa hoặc chậm triển khai trong quá trình
thực hiện NQ.
2. Hai là, những nội dung chính của Kết luận số
91-KL/TW, bao gồm: những kết quả đạt được và hạn chế, tồn tại sau 10 năm thực
hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW; bối cảnh và những vấn đề mới đặt ra đối với giáo
dục và đào tạo; các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo.
- Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; chú trọng công tác
xây dựng Đảng trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo; phát huy vai trò của các cấp
uỷ cơ sở giáo dục, đào tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các mục tiêu phát
triển giáo dục và đào tạo. Tăng cường vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước
về giáo dục, đào tạo trong việc quyết định biên chế, tổ chức bộ máy, chính sách
đối với nhà giáo và phân bổ ngân sách nhà nước cho ngành GD.
- Cho phép cơ sở giáo dục
thuộc khối Quân đội, Công an đào tạo hệ dân sự đối với các ngành lưỡng dụng một
cách phù hợp để khai thác hiệu quả các nguồn lực, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Đánh giá toàn diện việc thực hiện chủ trương sắp
xếp, sáp nhập trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm giáo dục nghề nghiệp -
giáo dục thường xuyên trên cả nước.
- Đổi mới, nâng cao chất
lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống,
giáo dục quốc phòng, an ninh gắn với việc xây dựng và phát huy hệ giá trị văn
hoá, con người Việt Nam;
- Tập trung đầu tư chiều
sâu, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực chất lượng cao đối với các cơ sở giáo dục
nghề nghiệp, giáo dục đại học công lập ở một số ngành, nghề, lĩnh vực mang tầm
cỡ khu vực và quốc tế. Chú trọng các ngành, lĩnh vực đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, nhất là các
ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật, công nghệ và các ngành mới như trí tuệ nhân
tạo, khoa học dữ liệu, bán dẫn, ... Xây dựng cơ chế, chính sách đột phá và đầu
tư nguồn lực tương xứng để phát triển các đại học quốc gia, đại học vùng, các
cơ sở giáo dục đại học xuất sắc theo hiệp định quốc tế, các cơ sở giáo dục đại
học trọng điểm, cơ sở giáo dục đại học sư phạm ngang tầm các nước tiên tiến.
Đầu tư nâng cao tiềm lực khoa học, đổi mới sáng tạo trong các cơ sở giáo
dục đại học theo hướng tạo thuận lợi, tháo gỡ các nút thắt, rào cản, tính đến
đặc thù về độ trễ và rủi ro trong nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo.
- Đẩy nhanh tiến trình chuyển
đổi số trong giáo dục và đào tạo; phát triển giáo dục số, giáo dục thông minh,
giáo dục cá nhân hoá, giáo dục sáng tạo, giáo dục thích ứng với sự phát triển
của trí tuệ nhân tạo; đồng thời, trang bị cho học sinh, sinh viên các kỹ năng
thiết yếu để thích ứng học tập, làm việc hiệu quả, an toàn trong không gian số;
khuyến khích phát triển các mô hình trường học mới như trường học số, trường
học thông minh, trường học hạnh phúc.
- Tập trung nâng cao năng lực ngoại ngữ của
học sinh, sinh viên, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 trong
trường học.
- Nghiên cứu cơ chế phân bổ
nguồn lực, chuyển từ hỗ trợ theo cơ chế cấp phát bình quân sang cơ chế Nhà nước
đặt hàng, giao nhiệm vụ hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ giáo dục theo kết quả
đầu ra. Nghiên cứu cơ chế, chính sách điều động, luân chuyển giáo viên giữa các
địa phương để giải quyết căn bản tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ và
nâng cao chất lượng giáo dục cho các vùng khó khăn.
3. Ba là, nêu bật tầm
quan trọng, vai trò, ý nghĩa, tính chất quyết định của đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo trong thực hiện đột phá chiến lược về phát triển nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước trong kỉ nguyên mới, kỉ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam./.
Một số hình ảnh của hội
nghị